Bài
Ðọc I: 1 Ga 2, 3-11
"Ai
thương yêu anh em mình thì ở trong sự sáng".
Trích
thư thứ nhất của Thánh Gioan Tông đồ.
Các con
thân mến, chính nơi điều này mà chúng ta biết rõ được là chúng
ta biết Chúa Giêsu, nếu chúng ta giữ các giới răn Người. Ai nói
mình biết Người, mà không giữ giới răn Người, là kẻ nói dối, và
nơi người ấy không có chân lý. Còn ai giữ lời Người, thì quả
thật tình yêu của Thiên Chúa đã tuyệt hảo nơi người ấy, và nhờ
điều đó mà chúng ta biết được chúng ta ở trong Người. Ai nói
mình ở trong Người, thì phải sống như Người đã sống.
Các con
thân mến, đây không phải là một giới răn mới mà cha viết cho các
con, nhưng là giới răn cũ các con đã có từ ban đầu. Giới răn cũ
đó, là lời các con đã nghe rồi. Nhưng đây cha lại viết cho các
con một điều răn mới, là điều chân thật nơi Người và nơi các
con, vì tối tăm đang qua đi, và sự sáng đã soi đến rồi.
Ai nói
mình ở trong sự sáng, mà lại ghét anh em mình, thì vẫn còn ở
trong tối tăm. Ai thương yêu anh em mình, thì ở trong sự sáng,
và nơi người ấy không có cớ vấp phạm. Còn ai ghét anh em mình,
thì ở trong tối tăm, đi trong tối tăm và không biết mình đi đâu,
vì tối tăm đã làm mù mắt họ.
Ðó là
lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 95, 1-2a. 2b-3. 5-6
Ðáp: Trời
xanh hãy vui mừng và địa cầu hãy hân hoan (c. 11a).
Xướng:
1) Hãy ca mừng Thiên Chúa bài ca mới. Hãy ca mừng Thiên Chúa,
hỡi toàn thể địa cầu. Hãy ca mừng Thiên Chúa, hãy chúc tụng danh
Người. - Ðáp.
2) Ngày
ngày hãy loan truyền ơn Người cứu độ. Hãy tường thuật vinh quang
Chúa giữa chư dân, và phép lạ Người ở nơi vạn quốc. - Ðáp.
3) Vì
mọi chúa tể của chư dân là hư ảo, nhưng Thiên Chúa đã tác tạo
trời xanh. Sáng láng và oai nghiêm toả trước thiên nhan, uy hùng
và tráng lệ phủ trên ngai báu. - Ðáp.
Alleluia:
Alleluia, alleluia! - Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể và đã cư
ngụ giữa chúng ta. Những ai tiếp nhận Người, thì Người ban cho
họ được quyền làm con Thiên Chúa. - Alleluia.
Phúc
Âm: Lc 2, 22-35
"Ánh
sáng đã chiếu soi các lương dân".
Tin Mừng
Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi mãn
thời hạn thanh tẩy theo Luật Môsê, ông bà đem Chúa Giêsu lên
thành Giêrusalem, để dâng cho Chúa, như đã viết trong lề luật
Chúa rằng: "Mọi con trai đầu lòng sẽ được gọi là của thánh, dâng
cho Thiên Chúa", và việc dâng lễ vật như đã nói trong lề luật
Chúa là "một cặp chim gáy, hoặc hai bồ câu con".
Và lúc
đó tại Giêrusalem có một người tên là Simêon, là người công
chính và có lòng kính sợ, đang mong đợi niềm an ủi Israel, có
Thánh Thần ở trong ông. Ông được Thánh Thần mách bảo là sẽ không
thấy giờ chết đến, trước khi thấy Ðấng Kitô của Chúa. Ðược Thánh
Thần thúc giục, ông vào đền thờ. Khi cha mẹ bồng trẻ Giêsu đến
để thi hành cho Người các nghi thức theo luật dạy, thì ông ẵm
lấy Người trên cánh tay mình, và chúc tụng Thiên Chúa rằng:
"Lạy
Chúa, bây giờ Chúa để cho tôi tớ Chúa đi bình an, theo như lời
Chúa. Vì chính mắt con đã thấy ơn cứu độ mà Chúa đã sắm sẵn
trước mặt muôn dân, là ánh sáng đã chiếu soi các lương dân, và
vinh quang của Israel dân Chúa".
Cha mẹ
Người đều kinh ngạc về những điều đã nói về Người. Simêon chúc
lành cho hai ông bà, và nói với Maria mẹ Người rằng: "Ðây trẻ
này được đặt lên, khiến cho nhiều người trong Israel phải sụp đổ
hay được đứng dậy, và cũng để làm mục tiêu cho người ta chống
đối. Về phần bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà, để tâm tư
nhiều tâm hồn được biểu lộ".
Ðó là
lời Chúa.
Suy niệm
Emmanuel Muôn Dân
Sau 3
lễ được Giáo Hội cố ý sắp xếp ngay sau Đại Lễ Giáng Sinh là Lễ
Thánh Stephanô 26/12, Lễ Thánh Gioan Tông Đồ 27/12 và Lễ Các
Thánh Anh Hài 28/12, thì đến các ngày còn lại trong Tuần Bát
Nhật Giáng Sinh, bao gồm cả Lễ Mẹ Thiên Chúa là ngày cuối cùng
của Tuần Bát Nhật Giáng Sinh theo phụng niên của Giáo Hội cũng
là ngày mở màn cho một năm mới của trần gian.
Bài
Phúc Âm hôm nay cũng chính là bài Phúc Âm cho Lễ Chúa Giêsu được
hiến dâng trong đền thờ ngày 2 thánh 2 hằng năm, thời điểm sau
40 ngày Người được hạ sinh. Tuy nhiên, bài Phúc Âm này vẫn được
Giáo Hội chọn đọc cho ngày 29/12 hôm nay trong Tuần Bát Nhật
Giáng Sinh có một ý nghĩa khác, không phải là ý nghĩa về biến cố
hiến dâng mà là ý nghĩa về mầu nhiệm giáng sinh.
Thật vậy, bài Phúc Âm hôm nay được
trích từ Phúc Âm Thánh Luca 2:22-35, không bao gồm câu 21 ngay
trước đó, câu cũng ở ngay sau đoạn Phúc Âm Lễ Rạng Đông Giáng
Sinh (Luca 2:15-20) về sự kiện các mục đồng đến thăm Hài Nhi
Giêsu, đó là câu: "Khi Hài Nhi được đủ tám ngày, nghĩa là đến
lúc phải làm lễ cắt bì, người ta đặt tên cho Hài Nhi là Giê-su;
đó là tên mà sứ thần đã đặt cho Người trước khi Người được thụ
thai trong lòng mẹ".
Bởi vì câu Phúc Âm về biến cố cắt
bì này không thích hợp với ý nghĩa của ngày 29/12 trong Tuần Bát
Nhật Giáng Sinh hôm nay. Nhưng nguyên bài Phúc Âm hôm nay về
biến cố hiến dâng sau 40 ngày lại thích hợp với mầu nhiệm Giáng
Sinh. Là vì trong bài Phúc Âm này, ở đoạn cuối, có hai câu liên
quan đến chính bản thân của Hài Nhi Giêsu, cũng như liên
quan đến cả thân phận Mẹ của Người nữa:
"Vì
chính mắt con đã thấy ơn cứu độ mà Chúa đã sắm sẵn trước mặt
muôn dân, là ánh sáng đã chiếu soi các lương dân, và vinh quang
của Israel dân Chúa... Ðây trẻ này được đặt lên, khiến cho nhiều
người trong Israel phải sụp đổ hay được đứng dậy, và cũng để làm
mục tiêu cho người ta chống đối. Về phần bà, một lưỡi gươm sẽ
đâm thấu tâm hồn bà, để tâm tư nhiều tâm hồn được biểu lộ".
Đúng
thế, bài Phúc Âm hôm nay, 29/12, chất chứa hai câu Phúc Âm then
chốt này là bài Phúc Âm ngay sau Lễ Các Thánh Anh Hài, một lễ
không phải chỉ tưởng kính các hài nhi Belem đã chết thay và chết
vì Hài Nhi Giêsu mà còn liên quan đến biến cố Thánh Gia thoát
chạy sang Ai Cập lánh nạn nữa, một biến cố lánh nạn xẩy ra ngay
sau sự kiện ba chiêm vương gia Đông phương đến bài thờ Hài Nhi
Giêsu, "vua của người Do Thái mới sinh" (Mathêu 2:2).
Nghĩa là
biến cố tị nạn sang Ai Cập sau biến cố ba chiêm vương gia Đông
phương tìm đến triều bái Hài Nhi Giêsu có liên quan đến thành
phần dân ngoại, tức liên quan đến vai trò cứu độ của Hài Nhi
Giêsu, một nhân vật lịch sử tuy mang huyết thống Do Thái nhưng
mang sứ mệnh cứu độ chung nhân loại là loài tạo vật có bản
tính đã bị hư hoại bởi nguyên tội nhưng đã được Người mặc lấy và
sử dụng như phương tiện và bí tích cứu độ trần gian.
Nếu biến
cố ba chiêm vương gia đông phương theo ngôi sao lạ tìm đến bài
thờ Hài Nhi Giêsu là "vua của người Do Thái mới sinh"
tiêu biểu cho lòng con người khao khát thần linh và mong đợi
một Đấng Tối Cao của mình, thì biến cố Hài Nhi Giêsu từ đất Do
Thái sang nước Ai Cập tiêu biểu cho hành động thần linh như
muốn đáp ứng nguyện vọng cứu độ của con người.
Nếu "Lời đã
hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta" (Gioan 1:14) nơi Hài
Nhi Giêsu thì nhân vật lịch sử Giêsu Thần Linh này chính là "ánh
sáng thật chiếu soi mọi người đã đến trong thế gian" (Gioan
1:9), chiếu soi từ dân Do Thái và từ đất Do Thái.
Đó là lý
do, "được Thánh Thần thúc giục", vị tư tế lão thành
Simeon trong Bài Phúc Âm hôm nay chẳng những đã tự động "vào đền
thờ" ngay chính lúc "cha mẹ bồng trẻ Giêsu đến để thi
hành cho Người các nghi thức theo luật dạy", mà còn nhận
biết ngay Con Trẻ Thần Linh này nữa và nói những lời tiên tri
hoàn toàn chính xác về thân phận của Người cũng như của Mẹ
Người: "Chính mắt con đã thấy ơn cứu độ mà Chúa đã sắm
sẵn trước mặt muôn dân, là ánh sáng đã chiếu soi
các lương dân, và vinh quang của Israel dân Chúa".
Tuy
nhiên, vị tư tế lão thành hằng trông đợi Đấng Thiên Sai mà ông
bấy giờ đã được diễm phúc "ẵm lấy Người trên cánh tay mình" không
phải chỉ dừng lại ở chỗ nhận biết mà còn nói tiên tri về
việc thực hiện ơn cứu độ này nữa, để nhờ đó mang lại phần rỗi
cho "muôn dân" hay "lương dân", đó là: "Con Trẻ
này được đặt lên, khiến cho nhiều người trong Israel phải sụp đổ
hay được đứng dậy, và cũng để làm mục tiêu cho người ta chống
đối".
Mà quả
thực đã xẩy ra đúng như vậy, với biến cố đầu tiên là "Con Trẻ
này" vừa mới được sinh ra còn non nớt đã phải thoát chạy
sang Ai Cập, một thoát chạy có vẻ thua kém và đầu hàng trước
quyền lực của trần gian, không thể tự cứu được mình, nhưng lại
là một thoát chạy mang ý nghĩa "chiếu soi các lương dân"
nơi đất nước Ai Cập là quốc gia tiêu biểu vốn có một liên hệ mật
thiết với lịch sử cứu độ của dân Do Thái trong Cựu Ước.
Và trong
cuộc thoát chạy của "Con Trẻ này", cho dù có được Bõ
Giuse của Người đóng vai chính thực hiện chăng nữa, nhưng phải
nói chỉ có Mẹ của Người, một đệ nhất tạo vật về ân sủng, một tạo
vật thân mật với Người nhất, hơn hết mọi tạo vật, hiểu Người
nhất và kính mến Người nhất, không có một tạo vật nào sánh bằng,
mới đau khổ nhất, đau khổ hơn ai hết, đau khổ khôn cùng khi thấy
"Con Đấng Tối Cao... Con Thiên Chúa" (Luca 1:32,35) của
mình còn non nớt như vậy mà đã bắt đầu phải chịu cuộc khổ nạn
cứu chuộc của Người, một cuộc khổ nạn và tử giá sau này chính Mẹ
sẽ đồng công cộng tác khi đứng dưới chân thập giá của Người (xem
Gioan 19:25), quằn quại khổ đau "như bị gươm sắc thâu qua
lòng", đúng như lời của vị tư tế lão thành Simeon tiên báo
trong Bài Phúc Âm hôm nay.
Bài Đọc
1 hôm nay, được trích từ Thư 1 của Thánh Gioan, tiếp ngay sau
Bài Đọc 1 hôm qua, Lễ Các Thánh Anh Hài, cũng cho thấy ý nghĩa
của Lễ Các Thánh Anh Hài có liên quan đến hôm nay và ngày mai,
vì ngày mai phụng vụ Lời Chúa vẫn tiếp tục cả Bài Đọc 1 hôm
nay lẫn Bài Phúc Âm hôm nay.
Căn cứ
vào mối liên hệ về phụng vụ Lời Chúa từ hôm qua đến hôm nay
trong Tuần Bát Nhật Giáng Sinh thì câu chính yếu của Bài Đọc 1
hôm nay là câu "tối tăm đang qua đi, và sự sáng đã soi đến
rồi. Ai nói mình ở trong sự sáng, mà lại ghét anh em mình, thì
vẫn còn ở trong tối tăm. Ai thương yêu anh em mình, thì ở trong
sự sáng, và nơi người ấy không có cớ vấp phạm. Còn ai ghét anh
em mình, thì ở trong tối tăm, đi trong tối tăm và không biết
mình đi đâu, vì tối tăm đã làm mù mắt họ".
"Sự
sáng đã soi đến rồi" đây
chính là "Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta"
(Gioan 1:14) nơi Hài Nhi Giêsu, và vì thế đã làm cho "tối
tăm đang qua đi", (chứ không phải là đã qua đi). "Tối
tăm đang qua đi" là vì những ai tin vào Người,
không phải chỉ ở chỗ "nhận biết Người" và "chấp nhận
Người" (Gioan 1:10-11) nơi Phép Rửa theo nghi thức, mà nhất
là còn phải sống bác ái yêu thương nữa, bằng không họ "vẫn
còn ở trong tối tăm", vì Người không phải chỉ là "ánh
sáng thế gian" chiếu soi vậy thôi mà là "ánh sáng sự sống
/ ánh sáng ban sự sống" (Gioan 8:12): "Thày là đường, là
sự thật và là sự sống" (Gioan 14:6).
Đó là lý
do "người môn đệ được Chúa Giêsu yêu" (Gioan 19:26; 20:2;
21:7,20) đã chí lý nhắc nhở và huấn dụ các Kitô hữu môn đệ Chúa
Kitô là thành phần chứng nhân của Người, "là ánh sáng thế
gian" (Mathêu 5:14) phản ảnh Người "là ánh sáng thế gian" rằng:
"Ai nói mình ở trong sự sáng, mà lại ghét anh em mình, thì
vẫn còn ở trong tối tăm. Ai thương yêu anh em mình, thì ở trong
sự sáng, và nơi người ấy không có cớ vấp phạm. Còn ai ghét anh
em mình, thì ở trong tối tăm, đi trong tối tăm và không biết
mình đi đâu, vì tối tăm đã làm mù mắt họ".
Vì "Lời đã
hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta" (Gioan 1:14) nơi Hài
Nhi Giêsu, "là ánh sáng đã chiếu soi các lương dân" như
thế mà "toàn thể địa cầu... hãy loan truyền ơn Người
cứu độ", đúng như cảm nhận hân hoan chúc tụng của Bài Đáp Ca
hôm nay:
1)
Hãy ca mừng Thiên Chúa bài ca mới. Hãy ca mừng Thiên Chúa, hỡi
toàn thể địa cầu. Hãy ca mừng Thiên Chúa, hãy chúc tụng danh
Người.
2)
Ngày ngày hãy loan truyền ơn Người cứu độ. Hãy tường thuật vinh
quang Chúa giữa chư dân, và phép lạ Người ở nơi vạn quốc.
3) Vì
mọi chúa tể của chư dân là hư ảo, nhưng Thiên Chúa đã tác tạo
trời xanh. Sáng láng và oai nghiêm toả trước thiên nhan, uy hùng
và tráng lệ phủ trên ngai báu.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL. Nếu có thể xin nghe chia
sẻ theo cảm hứng hơn là đọc lại bài chia sẻ trên
Ngay.29-12.mp3
29/12
Thánh Tôma Becket, giám mục, tử đạo (1118-1170)
Thánh
Toma Becket sinh ra tại Luân Đôn năm 1118. Cha Ngài, ông Gibert
Becket, là một hiệp sĩ người Normandy, đã trở thành thương gia
giàu có ở Luân Đôn. Mẹ Ngài cũng là người Normandy. Ngài có ít
là hai chị em mà một người sau này làm tu viện trưởng Barking.
Ngài thừa hưởng từ người mẹ lòng đạo đức, lòng sùng kính Đức Mẹ
và lòng quảng đại đối với người nghèo khó. Từ người cha, Toma
Becket thừa hưởng một tính khí kiêu hùng và cương quyết. Dáng
người cao ráo, đẹp trai, hấp dẫn và thông minh.
Ngài
theo học ở cả hai trường đại học Luân Ðôn và Paris. Sau cái chết
của người cha, gia đình bị khánh tận, Ðức Tổng Giám mục
Canterbury, là người đã từng sai ngài đến Rôma một vài lần, đã
cấp dưỡng và cho ngài theo học giáo luật. Năm 1154 ngài lên chức
Tổng Phó tế, phục vụ cho Giáo phận Canterbury. Sau khi theo học
tại Oxford, Đức Tổng giám mục Cantebury là Thaobald đã triệu mời
Ngài làm quản trị, lo những chuyện liên hệ với Roma.
Năm
1155, lúc mới 37 tuổi, ngài được Vua Henry II - là bạn ngài -
chọn làm Thủ tướng nước Anh, là nhân vật quyền thế thứ nhì, chỉ
sau nhà vua. Lúc đó, Ngài nổi tiếng vì lối sống xa hoa và phung
phí, Ngài thường khoe khoang, ngựa giòng chim ưng, chó quí là
bạn thân của Ngài. Bù lại sự xa hoa này, Ngài đã tỏ ra quảng đại
nhiều với những hy sinh thầm kín. Ngài cũng rất hiếu chiến và
dùng đến các quyền hạn của hoàng tử mình, Ngài đã tỏ ra có giá
trong một trận chiến gần Toulouse. Ngài còn tự lượng sức trong
một trận chiến đấu đơn với một hiệp sĩ danh tiếng người Pháp.
Tổng
giám mục Theobald qua đời, và Toma được chọn làm kế vị bất kể sự
chống đối Chúa hàng giáo sĩ khi thấy "một người thế tục và ồn ào
như vậy" được đưa lên tòa giám mục. Vua Henry chọn ngài làm Giám
mục Chính tòa Canterbury thì cuộc đời ngài thay đổi hoàn
toàn. Trong khi đó, chính Toma Becket đã tiên báo cho nhà vua
biết rằng: - "Thưa Ngài, nếu Chúa cho phép tôi làm Tổng giám mục
Canterbury, tôi sẽ hết được Ngài sủng ái. Ngài sẽ đòi tôi nhiều
điều, và Ngài đã làm nhiêu điều chống lại Giáo hội mà tôi sẽ
không thể chịu nổi. Tình cảm của Ngài sẽ sớm đổi thành thù hận
không chấm dứt nổi.
Nhưng
nhà vua vẫn muốn thấy Ngài lên ngai giám mục. Ngày 3 tháng sáu
năm 1162, Toma Becket đã thụ phong linh mục và ngày hôm sau được
tấn phong giám mục. Kẻ nô bộc của các hoàng tử đã trở thành nộ
bộc của Giáo hội, và chỉ còn muốn giữ vẻ xa hoa bên ngoài, Ngài
trở nên khiêm tốn hơn, mặc áo nhặm, tha thiết yêu thương kẻ
nghèo và xa cách đối với người giàu. Những nhưng điều lo ngại
của thánh nhân không tự biện minh mãi được. Các hiệp sĩ gọi Ngài
là kẻ bội phản. Toma Becket đã trả lời cho một người trong bọn
họ : "Nếu đôi tay này không phải là đôi tay của một linh mục thì
ông phải biết".
Vua
Henri II bóp nghẹt sự tự do của các tác viên Giáo hội, muốn bắt
chàng giáo sĩ nước Anh phải phục thẩm quyền các tòa án hoàng
gia, tước đoạt kho tàng của dân nghèo. Trước ý muốn của nhà vua,
các vị giám mục ngập ngừng, nhiều vị khứng chịu. Nhưng Tổng giám
mục Canterbury không để mình bị quyến rũ. Tức giận, nhà vua
triệu vời các giám mục vương quốc lại.
Trong
căn phòng tụ họp, hiện ra những con người mang khí giới như s ẵn
sàng tiêu diệt các Ngài. Các giám mục và các lãnh Chúa kinh
hoàng khấn nài xin vị giáo chủ nhượng bộ.
Để cứu
những người chung quanh, Toma Becket như nửa ưng thuận, đã xin
hoãn lại để nghiên cứu vấn đề. Ngài viết thư cho đức Thánh Cha
xin phán định. Đức Thánh Cha đã kết án tất cả những ai đã phát
thệ. Thế là Toma Becket đã rút lại lời một cách cao thượng. Nhà
vua bắt bớ Ngài. Đáp lại các lời tố cáo, Ngài tỏ ra cương quyết
và luôn giữ được tâm hồn thanh thản. Thất vọng nhà vua hô hoán :
- "Hoặc là ta mất ngôi, hoặc là con người ấy không còn là tổng
giám mục nữa".
Trong
một công đồng ở Nerthampton năm 1164, Ngài lại tỏ ra chống đối
và khi bị đe dọa đếng mạng sống hoặc tù tội. Một đêm kia, Ngài
đã tàng hình để thoát thân. Lang thang nhiều ngày, Ngài tới bờ
biển và được một thuyền đánh cá tiếp nhận Ngài đang lúc mệt nhọc
đến đứt hơi và đưa qua Pháp.
Vua Lu-y
VII đã hân hạnh tiếp đón vị tổng giám mục Caterbury, ông nói : -
"Nước Pháp có thói quen nuôi dưỡng bảo vệ những người chịu đau
khổ, nhất là những người bị lưu đày vì công chính".
Vị giáo
chủ lưu ngụ tại tu viện Pontiguy và tăng gấp nếp sống khắc khổ,
đến nỗi có thể nói được đây là cuộc "Hoán cải thứ nhì, từ đạo
đức tới thánh thiện". Ngài có giờ để cầu nguyện và suy gẫm. Ngài
tuân theo luật và nếp sống của tu viện. Dầy vậy cuộc trả thù của
nhà vua vẫn tiếp tục. Cha mẹ và bạn hữu Ngài bị tước hết tài
sản, bị trục xuất tới số 400 người. Họ buộc lòng phải đến với
Ngài, làm thành một đoàn người đáng thương. Toma Becket rất
nhiệt thành năng đỡ người nghèo. Lần này bất lực vì không thể
giúp đỡ được những người thân yêu nhất đang bị khổ cực vì mình.
Sau cùng, vua Henri loan báo là sẽ tiêu diệt mọi nhà dòng Xitô,
nếu một nhà dòng Xitô nào còn tiếp tục dung duõng Ngài. Toma
Becket liền đến một nữ tu viện Bênedictô ở Sens. Những năm tháng
đau khổ và trơ trọi nối tiếp nhau.
Trong
khi đó, nhà vua bị Đức Thánh Cha đe dọa, tỏ ra muốn giao hòa với
vị Tổng giám mục vào những tháng cuối cùng năm 1169. Một thứ hòa
hoãn chẳng dễ gì. Nhưng vị giáo chủ đã nói với những người muốn
ngăn cuộc hồi hương của mình rằng : - "Dù có biết chắc mình sẽ
bị chặt thành trăm mảnh, tôi vẫn trở về. Đã sáu năm rồi, đoàn
chiên của tôi vắng bóng chủ chăn".
Ngài tạo
thêm nhiều thù địch khi đưa ra những sắc lệnh huyền chức những
vị giám mục muốn chống đối lại Ngài. Khi tới Canterbury, dân
chúng chen lẫn nhau giữa những khúc thánh ca và những hồi chuông
đổ dồn để đến lãnh phép lành của Ngài. Những lời đầu tiên Ngài
nói trên tòa giảng là : - "Tôi đã tới để chịu chết giữa anh
em".
Nhà vua
tức giận với cuộc trở về khải hoàn này của Toma Becket, một con
người không thể lay chuyển trong mọi việc bảo vệ những quyền tự
do của Giáo hội. Người ta nghe thấy vua Henri kêu lớn : - "Không
có được lấy một người trong số những kẻ hèn ta nuôi dưỡng đây gỡ
cho chúng ta người giáo sĩ ngạo mạn này sao ?"
Khi ấy
có bốn hiệp sĩ đi Canterbury. Họ gặp vị giáo chủ trong căn phòng
gần nhà thờ chính tòa với các linh mục và tu sĩ. Họ nhục mạ
Ngài, nhưng Ngài nói : - "Đừng mất thời gian đe dọa tôi. Để sát
cánh chiến đấu, các người sẽ thấy tôi luôn luôn ở trong trận
chiến của Chúa".
Các hiệp
sĩ hùng hổ đi ra. Các giáo sĩ trách Ngài làm cho họ phải chết.
Toma Becket không trốn tránh, Ngài nói với họ : - "Tất cả chúng
ta hoặc phải chết. Đừng để sự sợ hãi làm cho chúng ta xa rời sự
công chính. Tôi sẵn sàng chết vì tình yêu Chúa mà những người
này giết tôi không phải vì tình yêu như vậy".
Và khi
nghe bước chân và tiếng kêu của các hiệp sĩ có võ trang, Ngài
leo lên thang nhà thờ chính tòa Ngài nói: - "Tôi ra tiền
tuyến".
Trả lời
cho những lăng nhục, Ngài nói: - "Tôi không phải là kẻ phản bội,
nhưng là một linh mục. Tôi sẵn sàng vì Danh đấng đã lấy máu cứ
chuộc tôi ... Nhưng vì Danh Thiên Chúa, đừng động tới những
người này của tôi".
Dựa lưng
vào cột, Đức Tổng giám mục chống lại những người muốn đưa Ngài
đi, đẩy những người tấn công ngã soài xuống đất : "Tôi không đi
đâu hết, hãy làm việc đó ở đây đi".
Những
người khác ngập ngừng. Vị tử đạo lớn tiếng phú mình cho Chúa và
Giáo hội : "Lạy Chúa, con phó linh hồn con trong tay Chúa".
Hai nhát
gươm tiếp liền. Toma Becket ngã xuống miệng còn nói : - "Vì danh
Chúa Giêsu và vì Giáo hội, tôi bằng lòng chịu chết". Và Ngài nằm
chết cạnh bàn thờ.
Trong kịch bản "Cuộc thảm sát trong
nhà thờ chính tòa", xuất bản năm 1935, văn sĩ Thomas Eliot đã
dựng lại cuộc tử đạo của thánh Thomas Becket như sau:
Khi được báo tin là những kẻ muốn
giết ngài đang kéo đến nhà thờ chính tòa, từ trong thánh đường,
ngài đã ra lệnh cho những người trung thành với ngài như sau: "Hãy
kéo cửa lên, hãy mở rộng cửa ra, tôi không muốn rằng nơi cầu
nguyện và là cung thánh phải biến thành một pháo đài. Nhà thờ
bảo vệ các tín hữu theo cách thế của nó, chứ không như gỗ đá,
bởi vì gỗ đá sẽ sụp đổ, còn nhà thờ thì tồn tại, nhà thờ cần
phải được mở ra, ngay cả cho kẻ thù, anh em hãy mở rộng cửa".
Khi thấy một số người còn chần chờ
và muốn tử thủ, ngài đã khuyên mọi người hãy có cái nhìn siêu
nhiên và chiến đấu bằng khí giới siêu nhiên, ngài nói:"Chúng
ta đã chiến đấu chống lại quái vật và chúng ta đã chiến thắng,
chúng ta cần phải chinh phục duy chỉ bằng sự đau khổ mà thôi.
Đây là chiến thắng dễ dàng nhất, đây là giờ khải hoàn của Thập
Giá, tôi ra lệnh cho anh em hãy mở cửa".
Cuộc tử đạo của thánh Tôma Becket
như được ghi lại trên đây nêu bật ý nghĩa đích thực của mọi cuộc
tử đạo: tử đạo là chết vì yêu thương và yêu thương ngay cả kẻ
thù của mình. Thánh Becket đã muốn nói lên ý nghĩa ấy khi kêu
gọi những kẻ trung thành với ngài hãy mở cửa nhà thờ chính tòa.
Ngài đã nói:"Nhà thờ cần phải được mở ra ngay cả cho những kẻ
thù của chúng ta".
Trước
cái chết anh dũng của Đức Tổng Giám mục Tôma Becket, Vua Henry
II hối hận, tổ chức lễ quốc tang cho ngài. Nhà vua đã thống hối
công khai bên mộ Ngài và những gì khiến thánh nhân chịu khổ đã
được sua sai nhờ cái chết của Ngài. nhưng người kế vị là Henry
VIII đã chiếm đoạt ngôi mộ ấy, và tẩu tán các thánh tích của
ngài. Chỉ ba năm sau (1173), ngài được phong thánh và ngôi mộ
của ngài trở thành điểm hành hương của Anh Quốc. Cái chết của
Đức tổng giám mục làm chấn động lương tâm toàn thể Chân Au. Các
phép lạ được phổ biến trên mộ Ngài. Đức Alexander III năm 1173
đã phong Ngài làm thánh tử đạo. Canterbury trở thành nơi hành
hương thứ nhì sau Rôma.
Đaminh Maria cao tấn tĩnh, tổng hợp
ThanhTomaBecket.mp3
https://youtu.be/sphT43g03Qc